“Nghĩa vụ liên đới” là một chế định hay của Bộ luật Dân sự năm 2005 và được kế thừa lại tại Bộ luật Dân sự năm 2015, đây là một quy định hợp lý bảo đảm quyền lợi cho người có quyền, giúp họ thực hiện được quyền của mình một cách thuận lợi hơn. Bài viết dưới đây sẽ chia sẻ rõ hơn về nghĩa vụ dân sự liên đới và một số vấn đề xoay quanh việc thi hành án đối với nghĩa vụ dân sự liên đới.
1. Nghĩa vụ dân sự liên đới là gì?
Trước hết, nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi chung là bên có quyền).
Khoản 1 Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
"Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ." |
Có thể thấy, để quyền dân sự của các chủ thể được bảo đảm, trong một số trường hợp, nghĩa vụ nhiều người sẽ được xác định là nghĩa vụ dân sự liên đới nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Mục đích của việc xác định nghĩa vụ liên đới là buộc những người có nghĩa vụ phải cùng nhau gánh vác toàn bộ nghĩa vụ nhằm bảo đảm quyền lợi cho chủ thể có quyền được trọn vẹn, kể cả khi có một trong số những người có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, trong quan hệ nghĩa vụ liên đới, những người có nghĩa vụ luôn luôn liên quan với nhau trong cả quá trình thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cũng như quyền yêu cầu của những người có quyền luôn được coi là một thể thống nhất.
Nghĩa vụ dân sự liên đới là loại nghĩa vụ nhiều người, trong đó, một trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ hoặc một trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
2. Căn cứ nào làm phát sinh nghĩa vụ liên đới?
Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
"Điều 275. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ Nghĩa vụ phát sinh từ căn cứ sau đây: 1. Hợp đồng. 2. Hành vi pháp lý đơn phương. 3. Thực hiện công việc không có ủy quyền. 4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. 5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật. 6. Căn cứ khác do pháp luật quy định." |
Như vậy, có thể thấy căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ liên đới có thể thông qua 06 trường hợp kể trên.
3. Nghĩa vụ liên đới được thực hiện như thế nào?
Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. 2. Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình. 3. Trường hợp bên có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ. 4. Trường hợp bên có quyền chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong số những người có nghĩa vụ liên đới không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì những người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ.” |
Như đã định nghĩa, nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ của nhiều người cùng phải thực hiện và người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số họ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Cho đến khi toàn bộ nghĩa vụ được thực hiện thì quan hệ giữa người có quyền và người có nghĩa vụ mới được coi là chấm dứt. Nghĩa là, người có nghĩa vụ không chỉ phải thực hiện phần của mình mà còn phải thực hiện thay cho người có nghĩa vụ khác khi người đó không có khả năng thực hiện.
Nếu một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu người chưa thực hiện phải thanh toán lại phần mà người này đã thực hiện cho họ.
Nếu người có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mà sau đó lại miễn việc thực hiện cho người đó thì nghĩa vụ dân sự được chấm dứt toàn bộ.
Nếu người có quyền chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một/một số người đối với phần riêng của họ thì những người khác vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ còn lại.
4. Quy định pháp luật về tổ chức thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/ 2020/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP); Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC) thì đối với trường hợp thi hành quyền, nghĩa vụ liên đới, Cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) ra một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa vụ liên đới. Trường hợp người được thi hành án chỉ yêu cầu một/một số người trong những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới thì Cơ quan THADS ra quyết định thi hành án đối với người đó.
Người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định của pháp luật dân sự. Trường hợp người được thi hành án có ý kiến bằng văn bản đồng ý cho một hoặc một số người trong số những người phải thi hành nghĩa vụ liên đới không thi hành phần nghĩa vụ của họ thì phần nghĩa vụ không yêu cầu thi hành án được đình chỉ theo quy định (Điều 11 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC).
5. Những bất cập từ thực tiễn tổ chức thi hành nghĩa vụ liên đới
Mặc dù Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có các quy định về thi hành nghĩa vụ liên đới, tuy nhiên, việc tổ chức thi hành án đối với nghĩa vụ dân sự liên đới trong thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập.
Một là: Khó tổ chức thi hành nghĩa vụ liên đới
Thực tiễn tổ chức thi hành án cho thấy, việc thực hiện nghĩa vụ liên đới là rất khó khăn, đặc biệt là đối với trường hợp bản án, quyết định đã xác định rõ nghĩa vụ của từng người (nghĩa vụ liên đới đã phân chia theo phần).
Ví dụ: A, B, C cùng bị xử phạt tù về hành vi cố ý gây thương tích cho D, Tòa án tuyên buộc cả A, B, C phải cùng liên đới bồi thường cho D số tiền 90.000.000 đồng, trong đó phần của A, B, C mỗi người là 30.000.000đ. Sau khi chấp hành hình phạt tù, A, B bỏ đi khỏi địa phương, không xác định được địa chỉ, tại địa phương cũng không có bất cứ tài sản gì để thi hành án. Chỉ có mình C trở về cư trú tại địa phương và bị kê biên tài sản để thi hành án cho toàn bộ nghĩa vụ là 90.000.000 đồng. Theo quy định của pháp luật, sau khi đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án C có quyền yêu cầu A, B thanh toán lại phần nghĩa vụ C đã thực hiện thay. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì C sẽ yêu cầu A, B hoàn lại như thế nào và ai sẽ bảo về quyền lợi cho C?
Do đó, một vấn đề đặt ra là sau khi một người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án cho những người khác thì người đó sẽ yêu cầu những người khác hoàn lại như thế nào? Mặc dù Điều 288 BLDS năm 2015 có quy định“Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình”. Tuy nhiên hành trình khởi kiện để đòi thanh toán khoản tiền này là rất gian nan, và khả năng thu hồi gần như là bằng không, nhất là khi người được thi hành thay không hề có điều kiện thi hành án.
Trên thực tế, việc yêu cầu một hoặc một số người bất kỳ có điều kiện thi hành án trong số những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới thường chỉ có thể thực hiện được nếu họ tự nguyện thi hành thay cho người khác. Trường hợp họ không tự nguyện thi hành thay thì rất khó có thể thực hiện được vì họ đã thi hành xong phần nghĩa vụ của mình theo quyết định của bản án, để họ thi hành tiếp phần nghĩa vụ của người khác là rất khó khăn. Trong những trường hợp này, người phải thi hành án thường không tự nguyện thi hành, thậm chí còn khiếu nại gay gắt, chống đối việc thi hành án.
Hai là: Vướng mắc trong việc đình chỉ thi hành án liên quan đến nghĩa vụ liên đới
Điểm a Điều 50 Luật THADS quy định: Thủ trưởng Cơ quan THADS phải ra Quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật đối với nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định, không được chuyển giao cho người thừa kế.
Tuy nhiên việc đình chỉ thi hành án trong trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ liên đới bị chết theo quy định tại Điều 50 Luật THADS còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Do còn có nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau nên việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất.
Theo quy định tại Điều 11 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC: Trường hợp người được thi hành án chỉ yêu cầu một hoặc một số người trong những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới thì Cơ quan THADS ra quyết định thi hành án đối với người đó. Nhưng khi có một/một số người có nghĩa vụ liên đới chết thì ai sẽ là người thực hiện phần nghĩa vụ hoàn lại cho người đã thi hành toàn bộ nghĩa vụ?
Quy định này cũng gặp vướng mắc khi thực hiện chuyển giao nghĩa vụ thi hành án. Theo Điều 54 Luật THADS và Điều 15 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, trong trường hợp một người đã thi hành nghĩa vụ liên đới mà muốn yêu cầu những người thừa kế của người có nghĩa vụ liên đới khác hoàn trả phần nghĩa vụ mà họ đã thực hiện thay thì phải thực hiện như thế nào? Theo quy định thì trường hợp này có thể phải khởi kiện ra Tòa án để thụ lý giải quyết theo một vụ việc khác, tuy nhiên việc khởi kiện tại Tòa án là rất gian nan và sẽ là “bất hợp lý” đối với người có ý thức chấp hành pháp luật đã thi hành xong nghĩa vụ của mình nhưng vẫn phải thi hành thay cả phần của những người có nghĩa vụ liên đới.
Do đó, đa số quan điểm cho rằng, khi xét xử, giải quyết các vụ án Tòa án không nên áp dụng cứng nhắc việc nhận định và buộc thi hành phần nghĩa vụ dân sự liên đới, mà nên xác định cụ thể nghĩa vụ của từng người trong khối nghĩa vụ liên đới – nhận định rõ trong Bản án, Quyết định để thuận lợi cho việc tổ chức thi hành án, đảm bảo quyền lợi của người có quyền và người có nghĩa vụ.
Ba là: Về việc xác nhận kết quả thi hành án đối với trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới
Theo Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/ NĐ-CP) trường hợp người được thi hành án chỉ yêu cầu một/một số người trong những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng Cơ quan THADS ra quyết định thi hành án đối với người đó (Khoản 2 điều 1 Thông tư số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC).
Vậy trong trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà một người đã thi hành toàn bộ nghĩa vụ cho những người còn lại thì việc xác nhận kết quả thi hành án đối với các đối tượng còn lại sẽ được thực hiện như thế nào?
Trong khi Điều 53 Luật THADS quy định:“đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xác nhận kết quả thi hành án” ; đương sự ở đây bao gồm người được thi hành án và người phải thi hành án. Nếu Cơ quan THADS chỉ ra quyết định thi hành án đối với một người trong số những người có nghĩa vụ liên đới sẽ không có căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của những người có nghĩa vụ liên đới còn lại, vậy thực hiện việc xác nhận kết quả thi hành án như thế nào đối với họ trong trường hợp này.
Mục đích của việc xác định nghĩa vụ liên đới nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của người bị thiệt hại. Tuy nhiên để đảm bảo thi hành nghĩa vụ này trong thực tiễn cần có những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật để nâng cao hiệu quả thi hành án đối với những vụ việc này.
Trên đây là một số vấn đề liên quan đến thi hành án đối với nghĩa vụ dân sự liên đới theo quy định của pháp luật hiện hành. Quý bạn đọc nếu chưa nắm rõ các quy định cũng như cần tư vấn pháp lý về các vấn đề liên quan đến vấn đề này, có thể liên hệ cho chúng tôi tại Email: congtyluatnguyentam@gmail.com, Hotline: (028) 6682 3286 – 0939 07 2345 hoặc liên hệ trực tiếp chúng tôi tại Văn phòng Công ty Luật Nguyễn Tâm & Partners (số 37 đường TTH 09, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh) để được giải đáp bảo vệ quyền lợi của mình.
Với tội đánh bạc, trong những năm gần đây, qua các vụ án...
Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời...
Khi bắt đầu quyết định kinh doanh một lĩnh vực nào đó, lựa...
Việc thành lập doanh nghiệp được xem là một trong những bước...
GIẢI VÔ ĐỊCH SÂN 5 – TRANH CÚP DIGITAL MARKETING LẦN 3