Thực tế hiện nay thì các quan hệ tranh chấp về tài sản như vay nợ, cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ,… diễn ra khá phổ biến. Mặc dù pháp luật hiện hành quy định khi phát sinh quan hệ tranh chấp thì các bên có thể thương lượng, hòa giải hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền yêu cầu giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Phán quyết của Tòa án sẽ là phán quyết có hiệu lực thi hành đối với các bên. Nếu con nợ cố tình trốn tránh việc trả nợ bằng cách bỏ trốn thì chủ nợ có thể trình báo, tố cáo tới cơ quan công an. Đó mới là cách đòi nợ hợp pháp.
Tuy nhiên, không phải người dân nào cũng am hiểu pháp luật và cũng không phải ai cũng sẵn sàng kiên nhẫn đi theo đến cùng một thủ tục tố tụng kéo dài vài tháng, thậm chí là vài năm. Đó là còn chưa kể đến việc con nợ không bỏ trốn nhưng không đăng ký cư trú, không ở cố định một nơi thì bước nộp đơn khởi kiện càng gian truân, trở ngại.
(Ảnh minh họa)
Do đó, nhiều người thường lựa chọn phương thức trực tiếp tìm đến người đang thuê, mượn, vay nợ tài sản để đòi. Khi gặp mặt thì các bên không tránh khỏi lời qua tiếng lại, có người vay nợ không có tiền trả nhưng lại có người cố tình chây ì, viện đủ mọi lý do, cố tình không trả. Thậm chí có những người còn có thái độ thách thức, khiêu khích người đi đòi dẫn đến chủ tài sản nóng nảy, bực tức, phẫn nộ, không kiềm chế được hành vi, cảm xúc của bản thân mà sử dụng vũ lực để yêu cầu bên vay nợ, thuê, mượn… phải trả tài sản hoặc tự ý lấy tài sản mang về.
Việc nợ nần nếu không được xử lý khôn khéo, dứt điểm thì có thể bùng phát thành các vụ án hình sự. Bởi thực tế nhiều trường hợp đi đòi nợ mà dùng vũ lực, “xiết đồ”, đòi nợ trái pháp luật đã bị xử lý về tội “Cướp tài sản”, tội “Cưỡng đoạt tài sản” hoặc tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”,… Ngoài ra, có nhiều người chủ tài sản đã thuê đối tượng khác đi đòi nợ, người được thuê sử dụng những biện pháp đòi nợ trái pháp luật và người chủ tài sản cũng vướng vào vòng lao lý.
Thời gian gần đây, nhiều vụ án cưỡng đoạt tài sản, cướp tài sản được đưa ra xét xử và đặc điểm chung của các vụ án này đều xuất phát từ nguyên nhân bị nợ tiền, chủ nợ đi đòi kết quả lại trở thành bị cáo.
Kinh nghiệm thực tiễn khi Luật sư Công ty Luật NguyễnTâm & Partners tham gia bào chữa cho các bị cáo trong quá trình xét xử cho thấy:
Ở cả hai tội danh này thì pháp luật không đòi hỏi phải chiếm đoạt được tài sản thì mới phạm tội mà pháp luật chỉ đòi hỏi có một trong các hành vi nêu trên là tội phạm đã hoàn thành.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng: Để cấu thành tội “Cướp tài sản” thì phải thỏa mãn hai dấu hiệu bắt buộc là (1) có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự và (2) phải có mục đích chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi mong muốn dịch chuyển tài sản của người khác thành tài sản của mình trái pháp luật và trái với ý chí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Thế nhưng đối với các vụ án đi đòi nợ, đi đòi tài sản cho thuê, cho mượn thì việc xác định mục đích chiếm đoạt tài sản cần phải được hướng dẫn cụ thể hơn. Bởi đôi khi đó là tài sản của chính người đi đòi bị con nợ cố tình không trả hoặc cố tình chiếm giữ chứ không phải là tài sản của con nợ hoặc tài sản của người khác.
Xét về nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội thì tội “Cướp tài sản” hình thành do mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Trong khi đó với người đi đòi nợ, tài sản chiếm đoạt trong một số trường hợp lại là tài sản của chính mình đang bị con nợ chiếm giữ. Cái sai của người đi đòi nợ ở đây là đã dùng vũ lực, đòi nợ sai cách rồi cuối cùng trở thành “cướp tài sản” của chính mình.
Chính vì những bất cập nêu trên mà việc xử lý người đi đòi nợ trái pháp luật về hành vi cướp tài sản là khá nặng so với tính chất, mức độ hành vi của họ, nếu giá trị tài sản mong muốn chiếm đoạt lớn thì khung hình phạt người phạm tội bị áp dụng là rất cao, thậm chí là tù chung thân. Việc đánh giá tội phạm và xử lý như vậy là có phần thiệt thòi cho một số người phạm tội.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi có quan điểm rằng tính chất, mức độ hành vi đòi nợ trái pháp luật và cướp tài sản là khác nhau; nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội cũng khác nhau. Do đó, sẽ phù hợp hơn rất nhiều nếu các nhà lập pháp nghiên cứu quy định một tội danh riêng, độc lập là tội “Đòi nợ trái pháp luật” để quy định rõ dấu hiệu cấu thành tội phạm này. Hoặc cũng có thể bổ sung trong tội “Cướp tài sản” một khung hình phạt riêng về hành vi cướp tài sản xuất phát từ đòi nợ trái pháp luật để tương xứng với tính chất, mức độ hành vi đó.
Những vụ việc từ người bị mất tài sản trở thành bị cáo xảy ra không hiếm, để lại băn khoăn cho không ít người vì cách đánh giá tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc hành hung người khác để ép trả nợ hoàn toàn khác với bản chất việc dùng vũ lực để cướp tài sản. Nếu chỉ nhìn vào hình thức biểu hiện của hành vi mà không xem xét rõ bản chất của sự việc, sẽ không tránh khỏi việc nhiều người bị kết án oan, sai.
Mọi nhu cầu tư vấn pháp lý và yêu cầu Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án hình sự, quý Khách hàng vui lòng liên hệ chúng tôi trực tiếp tại Văn phòng Công ty Luật Nguyễn Tâm & Partners (số 37 đường TTH 09, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh) hoặc qua Hotline: (028) 6682 3286 – 0939 07 2345.
Với tội đánh bạc, trong những năm gần đây, qua các vụ án...
Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời...
Khi bắt đầu quyết định kinh doanh một lĩnh vực nào đó, lựa...
Việc thành lập doanh nghiệp được xem là một trong những bước...
GIẢI VÔ ĐỊCH SÂN 5 – TRANH CÚP DIGITAL MARKETING LẦN 3