0939 07 2345 - 028 6682 3286 Congtyluatnguyentam@gmail.com

NGƯỜI TỐ CÁO SAI SỰ THẬT PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM GÌ?

Ngày đăng Ngày 29
9/2021

       Tố cáo là quyền của công dân được pháp luật quy định, cụ thể tại Điều 30 Hiến pháp năm 2013 có nêu: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Việc tố cáo được thực hiện trọng phạm vi, trình tự, thủ tục, nội dung theo Luật Tố cáo năm 2018Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và một số biện pháp thi hành Luật Tố cáo.

       Về định nghĩa, tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của pháp luật báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.

       Xét ở góc độ tích cực, tố cáo đã giúp cho Cơ quan Nhà nước làm rõ nhiều hành vi sai phạm, vi phạm quy định của pháp luật, nhiều vụ việc được kịp thời xử lý, nhiều đại án bị phanh phui cũng bắt đầu từ các đơn thư tố cáo đúng sự thật, có trách nhiệm.

       Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào mục đích của việc tố cáo cũng là đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, tập thể và của cá nhân. Đâu đó vẫn còn rất nhiều cá nhân lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, tố cáo sai sự thật vì mục đích, động cơ cá nhân, nhằm hạ thấp hình ảnh, uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức bị tố cáo. Đặc biệt là khi mà mạng xã hội ngày càng phát triển, môi trường internet không biên giới phát triển như hiện nay. Các hình thức tố cáo, trong đó kiểu tố cáo vu khống biến tướng rất nhanh. Nó không còn đơn thuần là gửi đơn thư nặc danh, mượn danh đến các cơ quan, tổ chức mà là lợi dụng mạng xã hội, nhất là Facebook và YouTube để tung ra các thông tin sai trái. Ít nhiều những thông tin đó khiến dư luận bị phân tán, người bị tố cáo dù đúng hay sai đều bị ảnh hưởng.

     Một vụ việc xảy ra ở tỉnh Thanh Hóa:

     Thời điểm cuối tháng 5-2020, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa đang chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2020-2025 thì xuất hiện nhiều đơn thư nặc danh tố cáo bà Bùi Thị Mười, Bí thư Huyện ủy “lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong quá trình công tác, vi phạm đạo đức, lối sống”. Sau đó, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã vào cuộc kiểm tra, xác minh và kết luận bà Bùi Thị Mười không vi phạm như đơn thư tố cáo. Công an tỉnh Thanh Hóa vào cuộc điều tra và ngày 22/7/2020 đã ra quyết định bắt tạm giam 03 tháng đối với Lê Hùng Mạnh (73 tuổi, trú xã Thuần Lộc, huyện Hậu Lộc) để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

(Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa)

       Về trách nhiệm khi cố ý tố cáo sai sự thật

       Tại Khoản 2 Điều 9 Luật Tố cáo năm 2018 quy định người tố cáo có nghĩa vụ:

  • Cung cấp thông tin cá nhân quy định tại Điều 23 của Luật này;
  • Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được;
  • Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo;
  • Hợp tác với người giải quyết tố cáo khi có yêu cầu;
  • Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.

Luật Tố cáo cũng nghiêm cấm nhiều hành vi đối với người tố cáo, như:

  • Cố ý tố cáo sai sự thật; cưỡng ép, lôi kéo, kích động, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật;
  • Sử dụng họ tên của người khác để tố cáo;
  • Mua chuộc, hối lộ, đe dọa, trả thù, xúc phạm người giải quyết tố cáo;
  • Lợi dụng quyền tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; gây rối an ninh, trật tự công cộng; xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;
  • Đưa tin sai sự thật về việc tố cáo và giải quyết tố cáo.
  • ...

       Khi người tố cáo có hành vi vi phạm điều cấm kể trên, cố ý tố cáo sai sự thật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (Điều 65 Luật Tố cáo 2018).

       Tại Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người nào thực hiện một trong các hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm” .

  • Dấu hiệu nhận biết của tội phạm này là:

+ Có hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hành vi này thể hiện qua việc người phạm tội đã tự đặt ra và loan truyền những điều không đúng với sự thật và có nội dung xuyên tác để xúc phạm đến danh dự của người khác hoặc để gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

       Người phạm tội thực hiện hành vi này có thể bằng cách nói trực tiếp hoặc thông qua các phương thức khác như qua phương tiện thông tin đại chúng, nhắn tin qua điện thoại di động…

+ Có hành vi lan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hành vi này được thể hiện qua việc người khác biết rõ điều đó là bịa đặt đó (việc biết rõ điều mình loan truyền là bịa đặt là dấu hiệu bắt buộc) nhưng vẫn loan truyền điều bịa đặt đó (như nói cho những người khác biết, đưa lên phương tiện thông tin đại chúng…) cho người khác.

+ Có hành vi bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Được thể hiện thông qua việc tự mình bịa ra rằng người khác có hành vi thực hiện một tội phạm nào đó và tố cáo họ trước cơ quan Nhà nước như: Công an, Viện Kiểm sát,… mặc dù thực tế người này không phải là người thực hiện hành vi phạm tội đó.

  • Mức hình phạt cao nhất của tội này là lên tới 07 năm tù cho trường hợp vu khống vì động cơ đê hèn; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; làm nạn nhân tự sát.

       Vì vậy, khi bị một người cố tình gán ghép tội danh và tố cáo tới Cơ quan có thẩm quyền trong khi thực tế bản thân không có hành vi phạm tội, toàn bộ nội dung tố cáo đều là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quý Khách hàng hoàn toàn có quyền tố giác người đó về Tội vu khống để đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật và bồi thường những thiệt hại cho danh dự, nhân phẩm đã bị xâm phạm.

       Có thể thấy rằng, mặc dù hệ thống pháp luật đã những có quy định về chế tài xử lý người tố cáo sai sự thật trong khuôn khổ pháp lý chặt chẽ nhưng vẫn tồn tại nhiều trường hợp tố cáo nặc danh, vu khống, không đúng sự thật chỉ nhằm mục đích vụ lợi, triệt hạ người khác. Việc này gây ra những hệ lụy rất xấu, thậm chí là nguy hiểm. Nó làm mất uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức bị tố cáo sai sự thật, bị vu khống, làm lãng phí thời gian, công sức, tài sản của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Và trong nhiều vụ việc, khi nội dung tố cáo được kết luận là không đúng thì người bị tố cáo đã phải chịu nhiều thiệt thòi bởi chờ “được vạ thì má đã sưng”.

       Mọi nhu cầu tư vấn và yêu cầu hỗ trợ pháp lý, quý Khách hàng có thể liên hệ chúng tôi trực tiếp tại Văn phòng Công ty Luật Nguyễn Tâm & Partners (số 37 đường TTH 09, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh) hoặc qua Hotline: (028) 6682 3286 – 0939 07 2345

Bài viết liên quan

Liên hệ với chúng tôi

  • 0939 07 2345 - 028 6682 3286
  • Congtyluatnguyentam@gmail.com
  • Số 37 đường Tân Thới Hiệp 09 (Đối diện TAND Quận 12), phường Tân Thới Hiệp, Quận 12, Tp. Hồ Chí Minh

Đăng ký nhận bản tin